TẦM QUAN TRỌNG VÀ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT PPP
TẦM QUAN TRỌNG VÀ ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT PPP
-Đầu tư theo phương thức đối tác công tư ( PPP) là phương thức đầu tư được thực hiện trên cơ sở hợp tác có thời hạn giữa Nhà nước và nhà đầu tư tư nhân thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng dự án PPP nhằm thu hút nhà đầu tư tư nhân tham gia dự án PPP.
Mục tiêu của mô hình hợp tác công tư (PPP) là Nhà nước và nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng nhằm kết hợp, phát huy tối đa điểm mạnh của cả hai nguồn lực này.
Luật PPP là tên thường gọi của Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư PPP 2020, có hiệu lực từ 01/01/2021.
Sự ra đời của Luật này là vô cùng cần thiết, xuất phát từ 2 vấn đề lớn. Một là, nhu cầu đầu tư theo phương thức PPP vô cùng lớn. Theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), mức đầu tư cơ sở hạ tầng của Việt Nam bình quân khoảng 5,7% GDP, chỉ đứng sau Trung Quốc (6,8%). Hai là, việc đầu tư theo phương thức này trước đây được thực hiện theo quy định của Luật đầu tư, Luật đầu tư công và một số luật liên quan cùng các văn bản hướng dẫn, dẫn đến tình trạng chồng chéo, xung đột pháp luật, gây khó khăn cho việc thực hiện, không đảm bảo mục tiêu của phương thức này. Do đó, sự ra đời của Luật PPP là điều tất yếu, tạo điều kiện thuận lợi nhất thu hút đầu tư theo phương thức PPP cũng như phát triển hạ tầng nước ta.
Luật PPP có nhiều điểm mới so với nghị định 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, cụ thể:
- Về khái niệm: Khoản 10 điều 3 luật PPP quy định thống nhất, cụ thể về đầu tư theo phương thức đối tác công tư, trong khi trước đây chỉ quy định dự án PPP là sự hợp tác giữa nhà nước với nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án.
- Về các loại hợp đồng PPP: Luật PPP loại bỏ quy định về thực hiện dự án theo hợp đồng BT ( Xây dựng – Chuyển giao): Kể từ ngày công bố luật PPP, nước ta sẽ dừng nghiên cứu, triển khai mới các dự án BT. Do đó, các địa phương đang nghiên cứu dự án BT sẽ có sự thay đổi đáng kể cơ cấu hợp đồng PPP vì một số địa phương hiện nay, các dự án PPP chủ yếu thực hiện theo hình thức BT.
- Về lĩnh vực đầu tư: Luật PPP quy định rút gọn, chi tiết các dự án PPP tập trung vào 5 lĩnh vực: Giao thông; Lưới điện, nhà máy điện; Thủy lợi, cung cấp nước sạch, thoát nước, xử lý nước thải, chất thải; Y tế, giáo dục – đào tạo; Hạ tầng công nghệ thông tin. Luật này rút gọn 2 lĩnh vực so với nghị định 63/2018.
- Về quy mô đầu tư: Nghị định số 63/2018/NĐ-CP không giới hạn tổng mức đầu tư các dự án PPP. Luật PPP nhằm tập trung nguồn lực đã quy định thực hiện đầu tư PPP đối với dự án có tổng mức đầu tư từ 200 tỷ đồng, trừ dự án ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn hoặc trong lĩnh vực y tế, giáo dục – đào tạo (từ 100 tỷ đồng trở lên). Quy mô tổng mức đầu tư tối thiểu đối với từng lĩnh vực do Thủ trướng Chính phủ quy định.
- Phân loại dự án PPP: Khác với quy định trước đây theo Nghị định số 63/2018/NĐ-CP dự án PPP được phân loại theo pháp luật đầu tư công, Luật PPP quy định việc phân loại dự án gắn với thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư (Quốc hội; Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, người đứng đầu cơ quan trung ương và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh).
- Vốn nhà nước trong dự án PPP: Luật PPP quy định rõ vốn nhà nước trong dự án PPP và phương án quản lý từng hình thức hỗ trợ, tham gia vốn nhà nước; đặc biệt, hạn mức tham gia trong dự án PPP không quá 50% tổng mức đầu tư của dự án (Nghị định 63/2018/NĐ-CP: không có quy định về mức vốn NSNN tham gia dự án PPP, tuy nhiên, yêu cầu không áp dụng đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất và thực hiện chỉ định thầu).
- Lựa chọn nhà đầu tư: Trước đây lựa chọn nhà đầu tư dự án PPP thực hiện theo quy định của Luật Đấu thầu, nhưng hiện nay Luật PPP thực hiện theo quy định riêng bảo đảm tính thống nhất, chỉnh thể và tính liên tục của quy trình thực hiện một dự án PPP. Theo đó, có 4 hình thức lựa chọn nhà đầu tư được áp dụng trong đầu tư theo phương thức PPP gồm: Đấu thầu rộng rãi; Đàm phán cạnh tranh; Chỉ định nhà đầu tư và Lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt.
- Cơ chế chia sẻ phần tăng, giảm doanh thu: Đây là một cơ chế mới, quan trọng và chưa có trong các quy định trước đây, Luật PPP quy định cơ chế chia sẻ tăng (doanh thu tăng trên 125%), giảm doanh (doanh thu giảm dưới 75%) thu để giảm thiểu rủi ro cho dự án PPP, đặc biệt các rủi ro do từ những thay đổi từ phía Nhà nước.
- Huy động vốn của doanh nghiệp dự án: Bên cạnh kênh huy động vốn truyền thống từ ngân hàng, Luật PPP cho phép doanh nghiệp dự án PPP được phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn thực hiện dự án PPP, thuận lợi cho doanh nghiệp kêu gọi vốn.
- Kiểm toán Nhà nước đối với dự án PPP: Luật PPP quy định cụ thể phạm vi, nội dung Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán đối với dự án PPP đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công tham gia vào dự án PPP; ngân sách nhà nước dùng để chia sẻ phần giảm doanh thu; và giá trị tài sản khi được chuyển giao cho Nhà nước.
- Bổ sung quy định về Hội đồng thẩm định dự án PPP: Luật PPP quy định 3 cấp Hội đồng thẩm định (nhà nước, liên ngành và cơ sở) dự án PPP tương ứng 3 cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án PPP để đảm bảo tính chặt chẽ, hiệu quả và khả thi trước khi dự án PPP đưa ra thị trường, thu hút đầu tư (trước đây hội đồng thẩm định dự án PPP gắn liền với các dự án đầu tư công).
TG: Khoa Bùi
Hotline: 0979.894.465